Top Google Việt Nam : Làm Biển Quảng Cáo, Mua Bán Ô Tô Cũ, Phong Thủy, Gitizen.info, Blog Thủ Thuật SEO, Quà Tặng Lưu Niệm

Thứ Bảy, 3 tháng 5, 2014

Chứng chỉ lưu ký – Kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp ở thị trường nước ngoài

Ngoài cách đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư có thể dùng hình thức đầu tư phê chuẩn DR. Nguồn: internet Theo cách này, quờ quạng các khoản giao thiệp mua, bán, cổ tức, chênh lệch giá đều được định bằng đơn vị tiền tệ nhà nước của công ty phát hành chứ không phải bằng đồng nội tệ của nhà đầu tư. Hơn nữa, nhà đầu tư còn phải làm quen với các quy trình và thủ tục liên hệ đến việc giao du, bù trừ, thanh toán… tại các thị trường này. Ngoài cách đầu tư trực tiếp, nhà đầu tư có thể dùng hình thức đầu tư thông qua chứng chỉ lưu ký (Depositary Receipts – DR). Đích bài viết nêu lên quy trình phát hành DR, lợi. Và thách thức khi phát hành DR, ưu điểm và nhược điểm của một số thị trường trên thế giới để chọn lọc thị trường phát hành DR và một số gợi ý chính sách nhằm đẩy mạnh kênh huy động vốn này. Chứng chỉ lưu ký - thời cơ và thách thức khi phát hành DR là loại chứng khoán được giao tiếp tại sở giao du chứng khoán trong nước, bằng đồng nội tệ và đại diện cho cổ phiếu của các công ty nước ngoài. Chứng chỉ lưu ký được khởi tạo khi cổ phiếu của một công ty nước ngoài được ký gửi vào nhà băng lưu ký tại quốc gia có sở giao tiếp chứng khoán mà cổ phiếu này dự kiến sẽ giao tiếp. Ngân hàng lưu ký sau đó sẽ phát hành các chứng chỉ đại diện cho số cổ phiếu đã được ký gửi. Số lượng DR phát hành và mức giá của mỗi DR phụ thuộc vào tỷ lệ so sánh giữa DR dự định phát hành với số lượng cổ phiếu cơ sở. Do đó, một DR có thể đại diện cho một cổ phiếu cơ sở, nhiều cổ phiếu cơ sở hoặc một phần của cổ phiếu cơ sở. Giá của các DR cũng bị ảnh hưởng bởi các nguyên tố giống như các yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu, trường hợp có sự chênh lệch giữa giá của DR và giá của các cổ phiếu cơ sở tại các thị trường giao dịch khác nhau có thể tạo ra dịp quãng lợi nhuận cho các giao tế kinh dinh chênh lệch giá. Nhà băng lưu ký chịu nghĩa vụ phát hành các chứng chỉ lưu ký song song cũng đóng vai trò đăng ký và lưu ký. Bao gồm các nhiệm vụ xử lý các công việc như tính sổ cổ tức, thực hành các nghĩa vụ thuế, chia tách cổ phiếu … Các nhà băng như The bank of NewYork Mellon, Deutsche Bank, JP Morgan, Citibank … được biết đến như những nhà băng cung cấp dịch vụ lưu ký lớn nhất. DR và giá của các cổ phiếu cơ sở tại các thị trường giao du khác nhau có thể tạo ra dịp từng lợi nhuận cho các giao tế kinh dinh chênh lệch giá. Có hai loại chứng chỉ lưu ký là chứng chỉ lưu ký toàn cầu (Global Depositary Receipt – GDR) và chứng chỉ lưu ký tại Mỹ (American Depositary Receipt – ADR). Chứng chỉ lưu ký toàn cầu là loại chứng chỉ lưu ký được phát hành bên ngoài quốc gia của công ty có cổ phiếu cơ sở và bên ngoài Hoa Kỳ. Ngân hàng lưu kí phát hành GDR thường có hội sở hoặc chi nhánh tại quốc gia nơi có sở giao tiếp chứng khoán mà chứng chỉ lưu ký được giao tiếp. Lợi thế của GDR là nó không bị lệ thuộc bởi các quy định liên tưởng đến tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài hay các quy định về kiểm soát dòng vốn của các quốc gia nơi các công ty phát hành cổ phiếu đóng hội sở bởi nó được phát hành ở nước ngoài. Chứng chỉ lưu ký tại Mỹ (ADR) là chứng chỉ lưu ký được định bằng USD và được giao dịch trên các sở giao thiệp chứng khoán của Mỹ như những cổ phiếu thường. Được tạo ra đầu tiên vào năm 1927, ADR là loại chứng chỉ lưu ký lâu đời nhất và ngày nay cũng là loại chứng chỉ lưu ký được giao du phổ thông nhất. ADR tạo điều kiện cho các công ty nước ngoài có thể huy động vốn từ các nhà đầu tư Mỹ. * Lợi ích về phía công ty phát hành Hội nhập vào nền kinh tế thế giới: Để niêm yết chứng khoán thành công trên thị trường quốc tế, doanh nghiệp phải được các định chế tài chính lớn giám định, theo đó, hình ảnh và thương hiệu của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế cũng được chứng minh và khẳng định. Ngoài ra, thương hiệu mạnh cũng giúp cho việc mở mang thị trường, mạng lưới phân phối và đối tác của doanh nghiệp thêm thuận lợi. Nâng cao tính thanh khoản cho cổ phiếu: số lượng nhà đầu tư trong và ngoài nước tăng lên do tin vào tiềm năng phát triển dài hạn của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp Việt Nam có thể dùng chứng chỉ cổ phiếu niêm yết tại thị trường quốc tế làm công cụ thanh toán cho các cuộc mua bán, sáp nhập, mở mang phạm vi hoạt động trên thị trường quốc tế. Nâng cao hiệu quả quản trị doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế: Việc dự vào thị trường quốc tế khiến doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hệ thống quản trị doanh nghiệp, hấp thu các tập quán thông lệ quản lý kinh dinh tiền tiến trên thế giới để có thể đảm bảo tuân thủ các chuẩn quốc tế. Khi niêm yết ra sàn chứng khoán lớn ở nước ngoài, doanh nghiệp phải đáp ứng những điều kiện niêm yết khe khắt của sàn chứng khoán đó như tính sáng tỏ thông tin, tiêu chuẩn kế toán, mức độ quản trị doanh nghiệp, mức độ bảo vệ nhà đầu tư … Tăng khả năng huy động vốn, đa dạng hóa nguồn vốn cho các doanh nghiệp trên thị trường quốc tế, đặc biệt trong hoàncảnh thị trường chứng khoán trong nướckhá u ám, các đợt phát hành cổ phiếunhằm tăng quy mô, đa dạng hóa cácnguồn vốn đều không vấn được sựquan tâm của nhà đầu tư trong nước. * Thách thức về phía công ty phát hành Huy động vốn quốc tế đồng nghĩa vớiviệc doanh nghiệp chịu nảy sinh nhiều phí tổn, đặc biệt là phí dịch vụ tham vấn luật, tham vấn nghiệpvụ được cung cấp bởi các công ty danh tiếng trên thế giới. Ngoại giả, doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa vào công tác marketing, PR để truyền bá thương hiệu trên trường quốc tế. Mở mang đối tượng cổ đông đồng thời với việc quan hệ cổ đông của doanh nghiệp trở thành phức tạp hơn khi rào cản địa lý và rào cản tiếng nói sẽ gây khó khăn cố định và nảy sinh hoài trong việc duy trì quan hệ với các nhà đầu tư quốc tế. Hiện tại, Việt Nam chưa có khung pháp lý điều chỉnh việc các doanh nghiệp niêm yết tại thị trường quốc tế, điều này khiến các doanh nghiệp chẳng thể chủ động được trong lịch trình niêm yết sàn quốc tế đã dự định. Khi dự thị trường quốc tế, doanh nghiệp phải đáp ứng được các yêu cầu ngặt nghèo theo chuẩn mực quốc tế về quản trị doanh nghiệp, cơ chế bẩm một cách thẳng tuột, minh bạch và thực hành các trách nhiệm pháp lý, đây là thách thức lớn nhất với các doanh nghiệp Việt Nam khi mà chuẩn mực kế toán của Việt Nam (Vietnamese Accounting Standards - VAS) vẫn còn một số điểm chưa tương ứng với chuẩn kế toán quốc tế (International Financial Reporting Standards - IFRS). Chọn lọc thị trường niêm yết ra nước ngoài cho các doanh nghiệp Việt Nam * Thị trường Mỹ chi tiết tham khảo và London Thị trường chứng khoán Mỹ lớn nhất thế giới, thị trườngLondon lớn nhất châu Âu và là trọng tâm tài chính khu vựcchâu Âu. Doanh nghiệp niêm yết trên những sàn này sẽ có cơhội tiếp cận với nguồn vốn khổng lồ, ổn định và khó bay hơi.Đây cũng là thị trường có tính thanh khoản cao và phí tổn sửdụng vốn thấp. Để niêm yết được trên sàn này, doanh nghiệp phải thỏa mãn các điều kiện niêm yết cực kỳ khó khăn. Thị trường Mỹ nổi tiếng có tiêu chuẩn niêm yết khó nhất về chỉ tiêu tài chính và vấn đề minh bạch thông báo, bảo vệ nhà đầu tư nhưng nơi đây cũng có dịch vụ pháp lý tốt, những nhà phân tích lớn nhất thế giới như: Citigroup, Deutsche Bank, JPMorgan… Phát hành ADR là hình thức dễ huy động vốn nhất tại Mỹ vì cơ quan phát hành ADR là những nhà băng có tiếng ở Mỹ. Tuy nhiên, nhà đầu tư tại thị trường này chỉ biết và tin vào những cơ quan phát hành ra ADR mà sẽ không biết đến tên tuổi thực sự người phát hành ra cổ phiếu là các công ty ở nước ngoài. Thị trường London có tiêu chuẩn niêm yết dễ hơn Mỹ và chú trọng về các chỉ tiêu ràng buộc như vốn hoạt động, quản trị công ty. London không bằng Mỹ về vốn hóa thị trường nhưng lại vượt Mỹ về số lượng công ty nước ngoài đến niêm yết. Ngoại giả, London còn dẫn đầu thế giới với trọng điểm dịch vụ pháp lý, quản lý quỹ đề phòng rủi ro, nhà băng, bảo hiểm, chứng khoán, phái sinh, kế toán, tham mưu quản lý … Điều bất lợi của sàn Mỹ và London đối với doanh nghiệp Việt Nam là thị trường này bóng gió về mặt địa lý và khác nhau về múi giờ so với Việt Nam nên sẽ làm hao tốn thêm nguồn lực so với các thị trường khác. * Thị trường Hồng Kông và Singapore Hồng Kông và Singapore là hai trung tâm tài chính của khu vực Đông Nam Á. So với Singapore, Hồng Kông là thị trường lớn hơn nhiều về quy mô. Những công ty niêm yết trên thị trường Hồng Kông chủ yếu là công ty Trung Quốc và một số rất ít đến từ các nước khác. Ngoài những công ty Trung Quốc, thị trường còn lôi cuốn một số công ty đến từ Hồng Kông, Nhật, Úc, Đài Loan, Ấn Độ, Châu Âu, Hàn Quốc… Vậy so với Hồng Kông, Singapore có nhiều và đa dạng công ty nước ngoài đến niêm yết. Điều kiện niêm yết của Singapore dễ hơn Hồng Kông về các tiêu chí tài chính như lợi nhuận, vốn hóa thị trường, nhà bảo trợ ở Hồng Kông là nép trong khi Singapore thì không cần, cả hai nhà nước đều có chính sách thuế ưu đãi. Theo số liệu điều tra năm 2013 của tổ chức Z/Yen Group tại Luân Đôn về chỉ số bình chọn trọng tâm tài chính trên thế giới, Singapore đứng thứ 4 với 751 điểm, sau Hồng Kông 759 điểm. London dẫn đầu và NewYork đứng thứ hai. 10 trọng điểm tài chính hàng đầu thế giới Đáng để ý nhất về hoạt động phát hành GDR tại Việt Nam thời kì qua phải kể đến trường hợp của Tập đoàn vàng anh Gia Lai (HAGL). HAGL đã bán 16,2 triệu cổ phiếu cho nhà băng lưu ký là Deutsche Bank Trust Company Americas (DBTCA) với sự tham mưu của Công ty chứng khoán ngân hàng Sài Gòn Thương Tín (SBS). Dựa trên số lượng cổ phiếu này, cùng với 8,1 triệu cổ phiếu thưởng được hưởng vào ngày 26/01/2011 (tỉ lệ 2:1), DBTCA đã phát hành 24,3 triệu GDR cho HAGL. Khối lượng GDR này đã được bán cho các nhà đầu tư nước ngoài và sau đó đã được niêm yết và giao thiệp trên sàn Professional Securities Market (PSM) của Sở giao tiếp chứng khoán London (London Securities Exchange - LSE) ngày 23/03/2011. Thành công của thương vụ này đã Giúp HAGL huy động được 60 triệu USD, song song cuộn được sự để ý của nhà đầu tư quốc tế. V. Là doanh nghiệp tiên phong trong việc thực hành kêu gọi vốn ưng chuẩn chứng chỉ lưu ký nên HAGL phải mất gần 2 năm trong việc triển khai các thủ tục phát hành và niêm yết GDR cũng như chọn nhà băng lưu ký, chọn công ty chứng khoán nước ngoài, nhà tham mưu luật … Do đó, uổng cho việc thực hiện các thủ tục phát hành và hoàn tất niêm yết GDR tại LSE là rất tốn kém mà không phải doanh nghiệp nào cũng hợp để thực hiện. Việc GDR của HAGL nhập thị trường PSM trên LSE chỉ mới là bước đầu của quá trình này. Trong năm trước hết, HAGL phải cam kết tuân thủ các nghĩa vụ về bẩm, bao gồm công bố các thông tin có thể tác động đến giá cổ phiếu, các vấn đề hệ trọng đến giao tiếp, công bố vắng thường niên và duy tr. Một danh sách cổ đông được xem là trong nhóm có thông tin nội bộ. Những nhà đầu tư trên LSE mua GDR của HAGL đã trở thành cổ đông của doanh nghiệp này và do đó, những vấn đề về quan hệ cổ đông cũng phức tạp hơn. Thách thức sau niêm yết là thách thức về quan hệ cổ đông và công bố thông tin kịp thời trên cả thị trường Việt Nam và London. Mặt khác, nếu GDR của HAGL không được giao du sôi động thì những đợt phát hành tiếp theo sẽ gặp chướng ngại. V. Vậy, HAGL cũng phải làm tốt quan hệ marketing và khuyến khích các nhà phân tách quốc tế có ít về GDR này để nhà đầu tư quốc tế thẳng tuột để . Đến GDR của công ty. Kết luận và gợi ý chính sách Nhu cầu DR từ các nhà đầu tư quốc tế đã và đang gia tăng mạnh vì các nhà đầu tư cần đa dạng hóa danh mục đầu tư, giảm chi phí, giảm mức độ rủi ro. Trong việc đa dạng danh mục đầu tư trên toàn cầu, các nhà đầu tư thường phải ứng phó với nhiều thách thức khi đầu tư trực tiếp vào thị trường của các nước đang phát triển hoặc mới nổi, đặc biệt là gặp nhiều khó khăn trong việc nhận thông tin của công ty phát hành, các thách thức trong việc tính sổ, lưu ký và việc chuyển đổi ngoại tệ không r. Ràng hoặc tốn kém. Những DR vượt qua các rào cản cố hữu của đầu tư quốc tế, là một phương ở đây tiện huy động vốn mới xuất ngày nay Việt Nam mang lại nhiều ích cho doanh nghiệp cũng như nền kinh tế trong việc thu hút ngoại tệ từ bên ngoài. Tuy nhiên, số lượng doanh nghiệp dùng dụng cụ này để huy động vốn còn khá hạn chế. Thành thử, để công cụ này trở thành phổ biến và được sử dụng một cách có hiệu quả thì cần có những giải pháp đồng bộ từ các cấp quản lý cho đến một số chủ thể có can dự. - Đối với các cơ quan quản lý nhà nước: Hoàn thiện cầu tiêu pháp lý cho hoạt động niêm yết chứng khoán ra nước ngoài hợp với thông lệ quốc tế, cần quy định r. Vấn đề đăng ký, lưu ký, tính sổ bù trừ; Quy định về ban bố thông báo ở chừng độ bảo vệ nhà đầu tư cao; Nghiên cứu hoàn thiện quy chế quản trị công ty tiền tiến của thế giới ứng dụng bức cho các công ty niêm yết tại Việt Nam để tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam dần đạt đến sự chuẩn của các thông lệ quốc tế, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư nước ngoài. - Đối với doanh nghiệp trong nước: Chủ động tiếp cận các chuẩn tài chính kế toán theo chuẩn quốc tế, hầu hết quờ quạng các sàn chứng khoán ở các nước đều đề nghị các công ty phải công bố mỏng tài chính đã được kiểm toán và soạn theo tiêu chuẩn kế toán quốc tế IFRS của 3 năm tài chính trước khi niêm yết, do vậy các doanh nghiệp cần lập ra một kế hoạch chi tiết vì để thực hiện được việc này công ty phải bỏ ra một hoài đáng kể và quá trình thực hành sẽ cần có sự liên kết của rất nhiều bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty; Từng bước xây dựng và ứng dụng các hệ thống quản trị công ty tiên tiến của thế giới đối với công ty đại chúng và niêm yết; Xây dựng và phát triển thương hiệu công ty mang tầm cỡ quốc tế để lôi cuốn sự để ý của các nhà đầu tư nước ngoài; Tích cực tìm những dịp kinh doanh mới, phát triển các dự án khả thi có tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn; Cải thiện sự sáng tỏ trong việc ban bố thông tin, vận dụng các chuẩn quốc tế trong việc trình diễn.# Các mỏng tài chính và có quan hệ tốt với các tổ chức tài chính trong và ngoài nước; chọn lọc nhà tham vấn niêm yết chuyên nghiệp và hiệu quả, doanh nghiệp nên chọn lựa nhà tham mưu nào hiểu ra về thị trường mà doanh nghiệp muốn niêm yết và đã tư vấn thành công cho các doanh nghiệp khác niêm yết tại đó. Tài liệu tham khảo: 1. PVFC (2011), “Phát hành chứng chỉ lưu ký toàn cầu (GDRs) - nhịp và thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam”, http://www.Vnba. Org.Vn/index.Php?option=com_content&tas k=view&id=710&Itemid=34 2. Vũ Anh Đức (2011), “Chứng chỉ tín thác toàn cầu - phương tiện huy động vốn cổ phần tối ưu”, http://www.Vnba.Org.Vn/index.Php?option=com_content&view=article&id=1450:chng-ch-tinthac-toan-cu-cong-c-huy-ng-vn-c-phn-ti-u-&catid=43:ao-to&Itemid=90 3. Lê Ngọc Hùng (2012), “Chứng chỉ lưu ký Toàn cầu (GDR) công cụ huy động vốn mới tại Việt Nam”, tập san Công nghệ nhà băng, số 77, trang 51-57. 4. Hồ Quốc Tuấn (2011), “Lên sàn ngoại bằng GDR: vừa sức doanh nghiệp Việt Nam”, http://cafef.Vn/thi-truong-chung-khoan/lensan-ngoai-bang-gdr-vua-suc-dn-viet-nam-20110331115145163ca31.Chn Theo tạp chí Tài chính - Bảo hiểm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét